Thiết kế HMS_Princess_Royal_(1911)

Lớp tàu chiến-tuần dương Lion, vốn được đặt tên lóng là những "Con mèo Tráng lệ" (Splendid Cats),[5] được thiết kế bởi Sir Philip Watts, Giám đốc Chế tạo Hải quân, để vượt trội hơn những tàu chiến-tuần dương mới của Đức thuộc lớp Moltke, vốn được Hải quân Đức chế tạo nhằm đối phó với lớp Invincible của Anh. Sự gia tăng về tốc độ, vỏ giáp và vũ khí đã khiến kích cỡ của chúng tăng hơn 70% so với lớp Indefatigable, khiến cho chúng trở thành những tàu chiến lớn nhất thế giới vào lúc đó.[6]

Các đặc tính chung

Sơ đồ mạn trái và sàn tàu của lớp Lion, lấy từ Jane's Fighting Ships 1918

Princess Royal lớn hơn đáng kể so với lớp Indefatigable dẫn trước. Nó có chiều dài chung 700 foot (213,4 m), mạn thuyền rộng 88 foot 7 inch (27,0 m), và độ sâu của mớn nước là 32 foot 5 inch (9,9 m) khi đầy tải nặng. Con tàu có trọng lượng choán nước là 26.270 tấn Anh (26.690 t), và lên đến 30.820 tấn Anh (31.310 t) khi đầy tải nặng, hơn 8.000 tấn Anh (8.100 t) so với các con tàu trước đó. Nó có một chiều cao khuynh tâm 6 foot (1,8 m) khi đầy tải nặng.[7]

Động lực

Princess Royal có hai bộ turbine hơi nước Parsons dẫn động trực tiếp được đặt trong các phòng động cơ riêng biệt. Mỗi bộ bao gồm một cặp turbine áp lực cao phía trước và phía sau nối với trục chân vịt phía ngoài, và một cặp turbine áp lực thấp phía trước và phía sau nối với trục chân vịt phía trong. Công suất thiết kế là 70.000 mã lực càng (52.199 kW), cho phép đạt đến tốc độ 28 hải lý trên giờ (52 km/h; 32 mph).[8] Vào tháng 9 năm 1912, Princess Royal bắt đầu chạy thử máy, đạt đến công suất 78.803 shp (58.763 kW) và tốc độ 28,5 hải lý trên giờ (52,8 km/h; 32,8 mph).[9] Trong đợt chạy thử máy hết tốc độ vào tháng 7 năm 1913, chiếc tàu chiến-tuần dương đạt đến công suất 96.238 shp (71.765 kW) với tốc độ 27,97 hải lý trên giờ (51,80 km/h; 32,19 mph), trong khi đang chất một tải trọng cao 29.660 tấn Anh (30.140 t).[10]

Hơi nước được cung cấp từ 42 nồi hơi ống nước Yarrow bố trí trong 7 phòng nồi hơi.[11] Nó có thể mang theo tối đa 3.500 tấn Anh (3.600 t) than cùng 1.135 tấn Anh (1.153 t) dầu đốt để phun vào than nhằm gia tăng tốc độ cháy.[12] Ở trữ lượng nhiên liệu tối đa, tầm xa hoạt động của chúng là 5.610 hải lý (10.390 km) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (12 mph; 19 km/h).[5]

Vũ khí

Princess Royal được trang bị tám khẩu pháo BL 13,5 in (340 mm) Mark V trên bốn tháp pháo nòng đôi vận hành bằng thủy lực, được đặt tên lần lượt là 'A', 'B', 'Q' và 'Y' từ trước ra sau. Dàn pháo hạng hai của chúng bao gồm mười sáu khẩu BL 4 in (100 mm) Mk VII, hầu hết được đặt trong các tháp pháo ụ.[13] Hai khẩu đội pháo 4 inch thuộc nhóm phía trước, được đặt trong ụ che trong giai đoạn 19131914 để bảo vệ pháo thủ của khẩu đội khỏi hoàn cảnh thời tiết khắc nghiệt và hoạt động của đối phương. Khẩu pháo 4 inch phía trước bên mạn phải được tháo dỡ vào đầu năm 1917,[14] thay thế bằng bệ góc cao Mark II có khả năng nâng lên đến góc, rồi được bổ sung thêm một khẩu thứ hai vào tháng 4 được cải biến tương tự như kiểu được trang bị cho con tàu chị em Lion.[13] Hai ống phóng ngư lôi ngầm 21 inch (530 mm) được trang bị bên mạn,[5] con tàu mang theo 14 quả ngư lôi.[13]

Một khẩu 3-inch 20 cwt phòng không đặt trên sàn sau của tàu chiến-tuần dương Australia.

Chiếc tàu chiến-tuần dương được chế tạo mà không có hỏa lực phòng không, nhưng trong giai đoạn từ tháng 10 năm 1914 đến tháng 12 năm 1916 đã được bổ sung một khẩu kiểu QF 6 pounder Hotchkiss trên bệ MkIc góc cao,[13] có khả năng hạ đến 8° và nâng tối đa lên đến 60°. Nó bắn ra đạn pháo nặng 6 pound (2,7 kg) với lưu tốc đầu đạn 1.765 ft/s (538 m/s) và tốc độ bắn 20 viên mỗi phút. Trần bắn tối đa là 10.000 ft (3.000 m), nhưng tầm bắn hiệu quả chỉ đạt 1.200 thước Anh (1.100 m).[15][16] Ngoài ra còn có một khẩu QF 3 inch 20 cwt[Ghi chú 1] trên bệ MkII góc cao được tăng cường vào tháng 1 năm 1915 nhưng được tháo dỡ vào tháng 4 năm 1917; có khả năng hạ đến 10° và nâng tối đa lên đến 90°. Nó bắn ra đạn pháo nặng 12,5 pound (5,7 kg) với lưu tốc đầu đạn 2.500 ft/s (760 m/s) và tốc độ 12–14 viên mỗi phút. Trần bắn hiệu quả của kiểu pháo này là 23.500 ft (7.163 m).[17][18]

Princess Royal được nâng cấp hệ thống kiểm soát hỏa lực từ giữa năm 1915 đến tháng 5 năm 1916, tập trung việc định vị và khai hỏa các khẩu pháo dưới sự điều khiển từ máy đo tầm xa đặt trên cột ăn-ten chính. Pháo thủ tại các tháp pháo chỉ cần tuân theo con trỏ được điều khiển từ bộ kiểm soát hỏa lực để hướng khẩu pháo đến mục tiêu. Điều này đã cải thiện đáng kể độ chính xác, vì nó dễ dàng trinh sát điểm rơi của pháo, đồng thời hạn chế ảnh hưởng của sự chòng chành con tàu trên sự phân tán của đạn pháo.[19] Đến đầu năm 1918, Princess Royal mang theo một thủy phi cơ kiểu Sopwith Pup và một Sopwith 1½ Strutter đặt trên các bệ cất cánh bố trí trên nóc các tháp pháo 'Q' và 'X'. Mỗi bệ có vải bạt để bảo vệ máy bay khỏi các yếu tố thời tiết.[20]

Vỏ giáp

Sơ đồ vỏ giáp bảo vệ cho Lion và Princess Royal nặng hơn so với những chiếc thuộc lớp Indefatigable; đai giáp ở mực nước làm bằng vỏ giáp Krupp dày đến 9 inch (229 mm) ở khoảng giữa con tàu, được vuốt mỏng còn 4 inch (102 mm) về phía hai đầu con tàu, nhưng không đến tận mũi và đuôi. Đai giáp trên với độ dày tối đa 6 inch (152 mm) trên cùng chiều dài phần dày nhất của đai giáp ở mực nước, giảm còn 5 inch (127 mm) ngang với các tháp pháo tận cùng.[21] Các tháp pháobệ tháp pháo được bảo vệ bởi vỏ giáp dày 8–9 inch (203–229 mm), ngoại trừ nóc tháp pháo dày 2,5–3,25 inch (64–83 mm). Độ dày của sàn tàu bọc thép nickel thay đổi 1–2,5 inch (25–64 mm); vách ngăn chống ngư lôi bằng thép nickel dày 2,5 inch (64 mm) được đặt ngang các hầm đạn và phòng đạn pháo.[22] Sau khi trận Jutland bộc lộ ra sự mong manh của con tàu đối với đạn pháo bắn tới, một lớp vỏ giáp bổ sung dày 1 inch nặng khoảng 100 tấn Anh (102 t) được tăng cường cho bệ tháp pháo bên trên hầm đạn và nóc tháp pháo.[23]